§IỂN CỐ VĂN HỌC
Trần Thanh Quang - Tháng 4/97
Tạ An : Khanh tướng đời Tấn.
Tài cất Vạc : Nói sức mạnh của Hạng Võ.
Lưu nữ tướng :
Thiên uy biếc sắc non sông.
Dầu tài cất vạc xem không kể gì.
Tài kiêm tám đấu : Nói tài kiệt xuất, lỗi lạc.
Thông chí : Tào Thực tự Tử Kiến, người nước Ngụy thời Tam quốc, con Tào Tháo, lên 10 tuổi đã giỏi nghề văn, hạ bút thành chương. Tào Tháo cho là lạ. Về sau, Tào Thực văn tài càng thêm lỗi lạc. Tạ Linh Vân thường nói : "Văn chương trong thiên hạ được một thạch (10 đấu), Tử Kiến riêng một mình đã chiếm hết 8 đấu."
Tài mệnh ghét nhau : Nói việc người có tài, vận mệnh thường long đong.
Thơ Lý Thường ẩn : Cổ lai tài mệnh lưỡng tương phương
Kiều : Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Tam bành :
Theo Thái Thượng Tam thí trung kinh của đạo gia thì Tam Bành là 3 vị thần là Bành Cứ, Bành Chất và Bành Kiểu ở trong người ta, hay xui người ta làm bậy. Do đó, đại phàm những sự hung ác giận dữ của con người là do thần Tam Bành gây ra.
Văn Nôm dùng "Tam Bành" để chỉ cơn giận dữ của người đàn bà.
Tam Ðảo : Ba hòn đảo tiên là : Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu.
Lời chú sách "Sơn Hải kinh" nói : "Ba hòn đảo to như núi Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu ở trong bể Bột Hải. Trên đảo có tiên ở, cung thất đều làm bằng vàng ngọc, điểu thú toàn một màu trắng, xa nhìn trông như mây".
Tam Ðiệp : Dãy núi đá nằm giữa hai tỉnh Thanh Hóa và Hà Nam Ninh ngày nay.
Tam giáo cửu lưu :
Ba giáo phái là Nho giáo, Phật giáo, Ðạo giáo và 9 học phái lớn thời Chiến quốc là : Nho gia, Ðạo gia, âm Dương gia, Phật gia, Danh gia và Mặc gia, Tung Hoành gia, Tạp gia, Nông gia.
Từ này dùng chỉ đủ mọi hạng người trong xã hội.
Tam Kỳ giang :
Ðoạn sông Hồng chảy qua vùng Việt Trì, Bạch Hạc thuộc tỉnh Vĩnh Phú. Nơi hội tụ của 3 dòng sông Thao, sông Lô, sông Ðà. Vùng sông nước này rất nổi tiếng về cảnh trí.
Ca Dao :
Ai ơi, đứng lại mà trông.
Kìa núi Tam Ðảo, nọ sông Tam Kỳ.
Tam Ngô : Chỉ vùng Ngô Châu, Thường Châu và Hồ Châu.
Tam Phủ :
Chỉ chung các thần ở trên trời (Thiên Phủ), âm phủ (Ðịa Phủ), trong lòng sông biển (Thủy Phủ) ở Ðộng Ðình và Xích Lân.
Tam Tòng : Ba điều phải theo của người phụ nữ (Ðạo Nho).
Nghi lễ : "Phu nhân hữu tam tòng chi nghĩa, vô chuyên dụng chi đạo, cố vi giá tòng phụ, ký giá tòng phu, phu tử tòng tử" (Người đàn bà có cái nghĩa phải theo 3 điều mà không có cái lễ (đạo) làm theo ý mình, cho nên khi chưa lấy chồng thì theo cha, khi đà lấy chồng thì theo chồng và khi chồng chết thì theo con).
Tam Thi : Xem Tam Bành.
Tám ngàn Xuân thu : Nói việc trường sinh mãi mãi.
Trang Tử : "Thượng cổ hữu đại xuân giả, dĩ bát thiên tuế vi xuân, bát thiên tuế vi thu" (Ðời Thượng cổ có giống cây Ðại Xuân, lấy 8000 năm làm mùa xuân, 8000 năm làm mùa thu).
Tám Tư : Tức Vũ Tám Tư. Xem Tố Nga.
Tang bồng hồ thỉ : Nói việc tung hoành làm nên nghiệp lớn.
Theo tục cổ Trung Quốc : Khi sinh con trai thì dùng cung gỗ dâu (Tang hồ) và tên cỏ bồng (bồng thỉ) bắn 6 phát lên trời, xuống đất và ra 4 phương với ý mong muốn đứa con sau này sẽ tung hoành khắp 4 phương để lo mưu việc lớn.
Lời sớ Lễ Ký : Dâu và cỏ Bồng là những vật có tố chất vốn có từ thời Thái cổ. Bồng là thứ cỏ ngăn ngừa sự loạn, Dâu là cây gốc của các loại cây (Nội Tắc).
Chu Sử (Tống) : "Khải tri nam tử tang bồng chí" (Sao biết được chí tang bồng của người trai).
Nguyễn Công Trứ :
Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái.
Cái công danh là cái nợ nần.
Tao Khang : Tao là bã rượu, Khang là cám gạo, nói thức ăn của kẻ hèn mọn.
Chỉ người lấy vợ từ buổi còn nghèo túng, cùng ăn bã rượu vá cám gạo.
Hậu Hán Thư : Quang Vũ Ðế có người chị là công chúa Hồ Dương mới góa chồng. Quang Vũ có ý muốn tái giá cho chị, một hôm cho triệu Tống Hoằng vào bệ kiến rồi nhân hỏi dò Hoằng (vì Hoằng đã có vợ) : "Tục ngữ có nói : Sang thì đổi bạn, giàu thì đổi vợ, có phải nhân tình là thế ư ? " Hoằng đáp : "Thần văn bần tiện chi tri bất khả vong, tao khang chi thê bất hạ đường." (Thần nghe nói bạn bè quen biết nhau từ thuở nghèo hèn không thể quên nhau, người vợ lấy từ buổi còn nghèo túng khốn khổ không bỏ cho ra khỏi nhà - tức là không thể bỏ nhau). Quang Vũ biết ý liền thôi.
Tào Bân : Khanh tướng đời Tống.
Tào Cao :
Ðại Tư Mã nước Sở, Hạng Vương sai giữ ở thành Cao, sau vì đánh nhau bị thua quân Hán trên sông Tỵ Thủy nên tự tử mà chết.
Tào Nga :
Nàng Tào Nga đời Hán. Cha nàng chết đuối dưới sông không tìm thấy xác, nàng mới 14 tuổi, vì thương cha mà đi dọc sông khóc lóc suốt ngày qua đêm rồi cũng gieo đầu xuống sông tự tử. Sau ba ngày ôm được thây cha nổi lên, người làng cho là thần bèn lập miếu thờ.
Tạ An : Khanh tướng đời Tấn. Xem Nằm giá.
Tào Tháo phụ ân nhân :
Tam Quốc Chí : Tào Tháo trốn nạn đến nhà người bạn của cha là Tả Bá Xa, Bá Xa sang Tây Thôn mua rượu để thết. Tháo nghe đàng sau có tiếng mài dao bèn lén vào nghe trộm, thấy người nói : "Trói lại mà giết". Tháo xông vào giết sạch tất cả đàn ông và đàn bà. Vào đến trong vườn thấy có con lợn bị trói nằm đấy mới biết giết lầm người tốt, vội vã bỏ đi. Ði được vài dặm thì gặp Bá Xa cưỡi lừa đeo hũ rượu về, sợ Bá Xa về thấy cả nhà bị giết sẽ làm lôi thôi. Tháo lại chém Bá Xa chết nốt.
Tào Thực : Con Tào Tháo. Xem Tài kiêm tám đấu.
Tăng Nhụ :
Thượng Hữu Lục : Ngưu Tăng Nhụ đời Ðường, đi thi trượt về đến núi Minh Cao trời tối lạc đường. Một lúc có một bóng trăng lên, thoáng thấy như mùi hương lạ, xa trông một chỗ có bóng đèn, tìm đến thì thấy một tòa cung điện rực rỡ, thì ra là miếu của bà Thái hậu họ Bạc đời Hán. Bà Bạc Hậu hiện lên mời đón rồi lại họp cả các bạn như Trích phu nhân, Chiêu quân, Thái Chân, Phan Phi... để cùng làm thơ. Tăng Nhụ cũng làm một bài.
Tăng Sâm : Học trò Khổng Tử, một bậc đại hiền.
Tầm Dương Giang :
Tên sông thuộc tỉnh Giang Tây Trung Quốc chảy qua huyện Cửu Giang đời Ðường, nhà thơ Bạch Cư Dị đang làm quan ở kinh đô, bị giáng chức về làm Tư Mã quận Cửu Giang (Tức quận Giang Châu). ở đây, trong một lần tiễn bạn ở bến sông Tầm Dương, nhà thơ gặp một cô gái giang hồ trên sông, cô gái vốn là một tay đánh đàn tỳ bà nổi tiếng ở kinh đô Tràng An lưu lạc về đây. Nghe đàn Tì bà, lại nghe cô gái kể lể về cảnh ngộ rũi ro, nhà thơ cảm khái làm bài "Tỳ Bà hành" nổi tiếng được truyền tụng đến ngày nay và đã được Phan Huy ích dịch ra tiếng Việt.
Chinh phụ ngâm :
Bến Tầm Dương chàng còn ngoảnh lại.
Chốn Tiêu Tương thiếp hãy trông theo.
Tân phương bát trận :
Sách thuốc do danh y Trương Giới Tân đời Minh soạn, ngoài ra ông còn soạn bộ "Cổ phương bát trận.
Tân Vương : Lạc Tân Vương, danh sĩ đời Ðường Cao Tông. Xem Lư Lạc.
Tần :
Tên nước thời Xuân Thu, ở vùng Thiểm Tây. Cũng là tên triều đại trước triều Hán do Tần Thủy Hoàng sáng lập. Triều Tần chỉ dài 15 năm, trãi 2 đời, 3 vua (từ 221 trước công nguyên đến 207 trước CN).
Ta lưu ý rằng các triều đại ở Trung Quốc thường lấy tên vùng đất khởi nghiệp làm tên triều đại chứ không lấy họ nhà vua làm tên như ở ta (TQ).
Tần nữ, Yên Cơ : Chỉ cô gái đẹp.
Thơ Vân Khanh đời Ðường :
Yên cơ thái trướng phù dung sắc.
Tần nữ kim lô lan xạ hương.
Bắc đẩu thất tinh hoành dạ bán.
Thanh ca nhất khúc đoạn nhân trường.
(Tấm màn đẹp của cô gái nước Yên màu hoa Phù dung, chiếc lô vàng của cô gái nước Tần có mùi lan xạ. 7 ngôi sao chòm Bắc Ðẩu lúc nữa đêm đã nằm ngang, một tiếng ca trong trẽo vút lên khiến người ta não ruột.)
Tây Hồ : Tên hồ thuộc tỉnh Chiết Giang, nơi có phong cảnh đẹp nổi tiếng.
Tây Thi :
Tên người đẹp nổi tiếng thời Xuân Thu, nàng họ Thi tên là Di Quang, nhà ở thôn Trữ La, phía Tây suối Nhược Da nên gọi là Tây Thi (Người con gái họ Thi ở phía Tây).
Theo Ngô Việt Xuân Thu : Việt Vương Câu Tiễn thua trận bị Ngô Phù Sai bắt bỏ tù. Sac tha về, Câu Tiễn mưu trả thù. Dùng Tây Thi để mê hoặc Phù Sai. Phù Sai mê Tây Thi, xây điện Cô Tô cho nàng ở, ngày đêm ân ái, bỏ bê việc nước. Câu Tiễn nhân đấy đem quân đến đánh. Phù Sai chống đỡ không nổi nên thua và mất nước.
Có sách cho rằng Tây Thi là Phạm Lãi, việc dâng Tây Thi cho Phù Sai là do kế của Phạm Lãi, sau khi giành được nước, Phạm Lãi cùng Tây thi rong chơi Ngũ Hồ.
Xem Ðào Công, Phạm Lãi.
Tây Vương Mẫu : Bà tiên cai quản các tiên nữ.
Tập Thiên lục : Tây Vương Mẫu hiệu Quy Sơn Kim Mẫu hay Quy Ðài Kim Mẫu Nguyên quân. Cung Khuyết của Vương Mẫu trên núi Quy Sơn có thành dài ngàn dặm, lầu ngọc 12 tòa. Bên trái có Dao Trì, bên phải có Hoàn Thúy Thủy. Dưới chân núi có Nhược Thủy, bao quan sóng cao nghìn trượng không có cách nào lên đến được. Vương Mẫu có vườn đào, đào 3000 năm mới kết quả, thường có mở tiệc đào tiên mời chư tiên về dự.
Hoa điểu tranh năng :
Nhớ xưa ở chốn đào viên.
Bà Vương Mẫu mở Thọ Diên vui mừng.
Tế Hầu ngã xe : Xem Lợn Bối Khâu..
Tế Liễu :
Tên đất ở Thiểm Tây, Trung Quốc, gần kinh thành Hàm Dương của Tần. Ðời Hán, đại tướng Chu á Phu đã từng đóng đại bản doanh ở đây.
Tề nhân : Người nước Tề.
Mạnh Tử : Người nước tề, nhà có vợ cả và vợ lẽ, người chồng cứ mỗi lần ra đi thì rượu thịt no say rồi trở về nhà. Vợ cả hỏi chồng cùng ăn uống với những ai thì anh chồng nói là cùng ăn toàn với những bậc giàu có sang trọng cả. Vợ cả bảo vợ bé rằng : "Chồng ta ra đi rượu thịt no say trở về, hỏi cùng ăn uống với ai thì bảo cùng ăn uống với toàn những bậc giàu sang mà sao không thấy một người giàu sang nào đến chơi nhà. Hay ta thử dò xem chồng ta đi những đâu." Sáng sớm hôm sau, vợ cả dậy lén đi theo chồng, đi cùng khắp ngõ ngách trong thành mà chẳng thấy người nào dừng lại chuyện trò với chồng mình cả. Cuối cùng, anh chồng đi đến nghĩa địa ở phía đông ngoại thành, đến gần những người đang cất mộ tế lễ xin ăn những cơm thừa, canh cặn, ăn chưa nó lại mong ngóng đến xin ăn đám khác. Ðó là cách rượu thịt no say của chồng.
Vợ cả về nhà kể chuyện cho vợ bé nghe rồi cả hai ngồi trông nhau mà khóc và xỉ mắng chồng. Anh chồng vẫn chưa biết chuyện, ngật ngưỡng ở ngoài bước vào, vẫn ra bộ làm kiêu với hai vợ.
ôi ! Lấy con mắt người quân tử mà xem thì ngày nay những kẻ cầu công danh phú quý hồ dễ không mấy kẻ mà ở nhà vợ cả vợ lẽ không thẹn, không tủi, không than, không khóc với nhau như hai chị vợ người nước Tề này.
Tề Thiên Ðại Thánh :
Tức Tôn Ngộ Không, nhân vật chính trong "Tây Du ký". Ngộ Không vốn là một con khỉ nở từ đá mà ra, cầu tiên học đạo có nhiều phép lạ, từng xuống thủy cung yêu sách Long Vương, xuống âm cung xóa sổ Diêm Vương. Trời vời lên làm Bật Mã ôn (Chức coi ngựa nhà trời). Ngộ Không không chịu, làm náo động thiên cung rồi bỏ về. Mấy tướng nhà trời muốn bắt đều bị đánh bại. Trời phải phong cho làm "Tề Thiên đại thánh" (Thánh to bằng trời). Sau, Ngộ Không quy Phật, cùng Ðường Tam Tạng sang Tây Trúc thỉnh kinh.
Tiên Khanh : tên của Bành Tổ. Xem Bành Tổ.
Tiến Phúc :
Tên một ngôi chùa cổ ở tỉnh Giang Tây (Trung Quốc). Chùa này có một tấm bia khắc chữ rất đẹp. Tương truyền đời Tống, Phạm trọng Yên làm quan ở Bá Dương, có một người học trò nghèo dâng ông một bài thơ, ông mến phục tài bèn cho người học trò kia rập chữ trên bia Tiến Phúc bán lấy tiền cho đỡ nghèo túng. Chưa rập chữ xong thì một đêm, bia bị sét đánh vỡ tan.
Tiền nhân hậu quả : Kiếp trước là nguyên nhân cho hậu quả p73 kiếp này.
Theo thuyết luân hồi của đạo Phật thì kiếp trước tạo ra cái "nhân" thì kiếp này hưởng cái "quả" và cứ thế luân hồi.
Truyền đăng lục :
Lục tri tiền thế nhân.
Kim sinh thụ giả thị.
Dục tri lai sinh quả.
Kim sinh tác giả thi.
(Muốn biết nguyên nhân ở kiếp trước thế nào, cứ xem việc hưởng thụ ở kiếp này. Muốn biết kết quả đời sau thế nào, cứ xem việc làm ở đời này.)
Tiếng Bặt bờ Tương :
Thơ vịnh loài vượn có câu :
Ðề thời mạc cận tiêu tương ngạn.
Minh nguyệt cô chu hữu lữ nhân.
(Lúc kêu gần bờ sông Tiêu Tương , vì trong chiếc thuyền chờ dưới bóng trăng trong có người lữ khách).
ý nói nếu kêu để người lữ khách nghe tiếng sẽ gợi cho người ấy nổi buồn cố quốc tha hương.
Tiếng Phong Hạc :
Do chữ "Phong thanh hạc lệ" : Tiếng gió thổi, tiếng chim Hạc kêu, chỉ sự trông ngóng chờ đợi.
Tấn thư : Phù Kiên đem trăm vạn quân dàn trận ở Phí Thủy. Tạ Huyền dẫn 8000 quân tinh nhuệ vượt sông đánh giặc. Quân Phù Kiên tan vỡ vứt giáp chạy tán loạn, nghe tiếng gió thổi, tiếng chim hạc kêu (Phong thanh hạc lệ) cũng tưởng là quân đến cứu viện.
Tiếp Dư :
Họ Lục, tên Thông, người đời vua Chiêu Vương nước Sở, giả cách rồ dại không chịu ra làm quan. Người đương thời gọi ông là Sở cuồng (Kẻ cuồng nước Sở).
Tiết Ðào : Xem Giấy Tiết Ðào.
Tiêu Diễn : Tên tục của Lương Vũ Ðế.
Tiêu phòng : Chỉ nơi cho cung nữ ở.
Hán thư : Tiêu phòng là tên một điện trong cung Vị Ương, nơi Hoàng hậu ở, vách có trát hồ tiêu tán nhỏ cho thơm và ấm.
Cung oán ngâm khúc :
Oán chi những khách tiêu phòng.
Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
Tiêu Sử :
Ðông Chu liệt quốc : Chàng Tiêu Sử giỏi thổi ống Tiêu, vua Tần Mục Công đem con gái là nàng Lộng ngọc gã cho. Chàng dạy nàng thổi Tiêu, chim Phượng Hoàng nghe tiếng bay đến. Sau, vợ chồng cùng cưỡi Phượng mà bay lên trời.
Tiêu Sương : Tên giống ngựa quý và hiếm thời xưa.
Tả Truyện : Ðường Thành Công qua nước Sở có đưa theo một con ngựa Tiêu Sương. Tử Thường muốn được giống ngựa đó.
Lời sớ của Mã Dung nói : "Tiêu Sương là loài ngựa, giống hình con nhạn, thiên hạ ít có."
Tiêu Tương :
Sông Tiêu và sông Tương thuộc tỉnh hồ Nam, Trung Quốc. Chổ hợp lưu ở Linh Lăng gọi là "Tiêu Tương".
Thời cổ, Tiêu Tương tượng trưng cho sự ly biệt.
Tiểu Lân :
Họ Phùng, hiệu Tục Mệnh, vợ Hậu Chủ nước Tề thời Nam Bắc Triều. Nàng thông minh, giỏi ca vũ, thạo đàn địch. Sau khi nước Tề thua nước Chu, Tiểu Lân bị bắt về Chu. Chu Vũ Ðế gã nàng cho người khác. Nhân lúc ngồi đàn, dây đàn đứt, nàng xúc càm mà làm bài thơ có câu : "Dục tri tâm đoạn tuyệt, ưng khán tất thượng huyền." (Muốn biết tơ lòng đứt nát thì nên xem sợi dây đàn trên đầu gối này.)
Tiểu Man : Vợ lẽ của thi sĩ Bạch Cư Dị, nàng múa rất khéo.
Tiểu thanh ký :
Tên một quyển sách kể chuyện nàng Tiểu Thanh, một người con gái tài sắc đầu đời Minh. Nàng làm lẽ, bị vợ cả ghen, bắt sống một mình trong ngôi nhà trên núi Cô Sơn cạnh Tây Hồ tỉnh Chiết Giang. Buồn quá, nàng ốm chết khi mới 18 tuổi.
Tiều phu núi Na :
Truyền kỳ mạn lục : Ðất Thanh Hóa có ngọn núi cao chót vót là núi Na, trong có một cái động dài và hẹp, hiểm trở và quạnh hiu. Hàng ngày trong động có người tiều phu gánh củi đi ra. Ðến năm khai đại nhà Hồ, Hồ Hán Thương đi săn gặp bèn đi theo, nằn nì ông ra giúp nước nhưng không được. Ngườitiều phu có hai câu thơ tiên đoán vận hạn nhà Hồ :
Kỳ La hải khẩu ngâm hồn đoạn.
Cao vọng sơn đầu khách tứ sầu.
(Kỳ La cửa bể hồn thơ đoạn,
Cao vọng đầu non dạ khách buồn.)
Quả thật, Cao Cọng và Kỳ La là nơi Hồ Quý Ly và Hồ Hán thương bị bắt.
Tìm hương :
Từ chữ "Tầm hương", xuất phát từ câu thơ "Tư thị tầm phương khứ hiệu trì" của Ðỗ Mục nói về việc duyên lứa lỡ làng.
Tin cá : Do chữ "Ngư tín", chỉ tin tức, thư từ nói chung.
Nhữ Nam tiên hiền truyện : Cát Nguyên thấy có người bán một con cá to, bèn nói với anh ta : "Xin tạm phiền nhờ con cá ấy đến chổ ở của Hà Bá." Người bán cá đáp cá đã chết. Nguyên bèn lấy đan thư bỏ vào miệng cá rồi thả xuống nước, một lát con cá nhảy lên bờ nhả ra một bức thư màu xanh đen như lá cây rồi bay mất.
Tin nhạn : Ðưa tin, thông báo tin tức.
Hán thư : Tô Vũ đời Hán đi sứ sang Hung Nô, bị chúa Hung nô bắt giữ lại chăn dê ở núi Bắc Hải. Khi Hung nô với Hán hòa nhau, vua Hán hỏi về Tô Vũ, chúa Hung Nô nói rằng Vũ đã chết. Vua Hán không tin, sai sứ sang báo với chú Hung Nô rằng Tô Vũ vẫn còn sống vì vua Hán có bắt được một con chim nhạn chân có buộc bức thư Tô Vũ gửi về. Chúa Hung Nô tưởng thật đành trả Tô Vũ về.
Xem Tin sương.
Tin sương :
Do chữ "Sương tín" : Chim báo tin có sương xuống, tức chim nhạn, chỉ tin tức.
Cổ kim thi thoại : Giống chim Bạch Nhạn ở phương Bắc, mỗi lần bay xuống phương Nam thì có sương xuống nên gọi Bạch Nhạn là "Sương tín".
Thơ Trần Cơ : "Sương tín tảo tùy thu nhạn chí" (Tin sương sớm theo chim nhạn mùa thu bay đến).
Tin xuân : Chỉ tin tức, Xem Tin sương.
Tinh Biểu : "Tinh" là lá cờ có rìa thêu, Biểu" là bêu tỏ.
Ngày xưa, mỗi khi vua ban lời khen thưởng cho người tiết tháo, trung trinh thì thêu tờ khen ấy vào lá cờ hoặc ở bức biểu mà ban cho nên gọi là Tinh biểu.
Tinh đèn :
Viên Cơ : Tống Tiềm làm chức Tuần Kiểm ở Cam Lăng có đón một người bạn tên là Triệu Dương Huấn đến nhà ngồi dạy trẻ học. Một đêm Triệu thấy có một người đàn bà đẹp đứng dưới đèn ngâm thơ khêu gợi rồi tắt phụt đèn đi. Từ đấy, hai người đêm nào cũng quấn quít với nhau. Lâu rồi Tống Tiềm biết, bèn sai người nhà vây bắt được người đàn bà ấy, nắn cổ tay thấy bé tí, nhìn ra thì là cái quặng đèn, bèn đốt bỏ cái quặng ấy đi.
Tinh thổi lữa : Xem Quản Lộ.
Tinh Vệ : Tên giống chim nhỏ ở bãi biển.
Thuật Di ký : Ngày xưa, con gái Viêm Ðế đi chơi, vượt bể bị chết đuối hóa ra con chim Tinh Vệ, ngày cứ đến núi Tây ngậm đá về biển đông hòng lấp biển cho hả giận.
Hồn Tinh Vệ : Hồn oan.
Toa Ðô :
Tướng nhà Nguyên bị Trần Nhật Duật đánh bại và chết ở Tây Kết (1285).
Tòng Phu : Xem Tam Tòng.
Tô Ðông Pha :
Tô Thức : Hiệu của Tô Ðông Pha.
Tô Vũ : Người đời Hán, tự Tử Khanh.
Hán Thư : Thời Hán Vũ đế, Tô Vũ làm Trung Lang Tướng, Ði sứ Hung Nô, chúa Hung nô là Thiềm Vu bắt Tô Vũ phải hàng phục nhưng Tô Vũ không chịu khuất phục nên bị tống giam vào một cái hang lớn không cho ăn uống gì cả. Tuyết xuống, Tô Vũ lấy tuyết và lông chim mà ăn, sau ông bị bắt đày đi chăn dê ở Bắc hải, nơi không có quan một bóng người, không có lấy một thứ để ăn, Tô Vũ phải đào hang bắt chuột mà ăn. Suốt 19 năm bị đày ở Hung Nô cực khổ như vậy nhưng Tô Vũ vẫn giữ tấmlòng trung với nước, vẫn chống cờ tiết nhà Hán khi đi chăn dê. Ðến đời Hán Chiêu Ðế, Hung Hán hòa thuận nhau, Thiềm Vu cho Tô Vũ về nước. Thời Hán Nghi Ðế, Vũ được phong tước quan Nội Hầu, khi chết được vẽ hình thờ ở Kỳ Lân Các.
Quốc âm thi tập :
Ðời Thương khách biết cầu Xem Y Doãn.
Nhà Hán ai ngờ được Tử Khanh.
Tố Nga :
Ðời Ðường, Vũ Tám Tư có nàng hầu là Tố Nga nhan sắc đẹp lắm. ông Ðịnh Lương Công đến chơi, Tám Tư gọi ra, nàng bổng lẫn mất. Tám Tư thấy chổ gốc nhà có mùi hương bay ra thơm ngát bèn đến lắng nghe thì ra đấy chính là Tố Nga. Nàng nói : "Thiếp là con yêu của mặt trăng, thượng đế sai xuống hầu hạ ông. Lương Công là bậc chính nhân đương thời, thiếp không dám giáp mặt."
(Vũ Tám Tư tức Vũ Thừa Tư).
Tổ Ðịch :
Thông Chí : Tổ Ðịch người đất Phạm Dương đời Tấn, tự Sỹ Nhã, tính không hay câu thúc. Thời Tấn Nguyên đế, Tổ Ðịch tự hiến mình xin đầu quân đi đánh phương Bắc. Vua bằng lòng cho giữ chức Phấn Uy tướng quân. Tổ Ðịch cầm quân ra đi, khi qua sông đến giữa dòng mới gõ mái chèo mà thề quyết dẹp giặc. Quả nhiên về sau phá được Thạch Lặc, khôi phục toàn bộ đất phía nam sông Hoàng Hà.
Xem Lưu Côn, Tổ Ðịch., Người Ðịch chống chèo., Sĩ Trĩ.
Tôn Kính : Xem Ghép Liễu.
Tôn Khang : Xem án Tuyết.
Tôn Tẫn :
Ðông Chu liệt quốc : Tôn Tẫn người nước Tề thời Chiến Quốc, con cháu Tôn Vũ. Trước kia, Tôn Tẫn cùng Bàng Quyên học binh pháp với thầy Quỷ Cốc Tử. Về sau, Bàng Quyên làm tướng nước Ngụy, nhưng vẫn tự cho mình không tài giỏi bằng Tôn Tẫn nên ngầm sai người mời Tôn Tẫn đến rồi mượn pháp thuật mà trị tội : Chặt 2 chân và chạm vào mặt để Tôn Tẫn phải giấu mình không xuất đầu lộ diện được. Sứ giả nước Tề đến đất Lương, Tôn Tẫn mang thân đã bị hình phạt lén gặp thuyết phục sứ giả. Sứ giả nước Tề cho là kỳ lạ bèn mang trộm lên xe đưa về Tề. Tướng Tề là Ðiền Kỵ phục tài bèn tâu với Uy Vương phong Tôn Tẫn làm thầy, Ðiền Kỵ làm tướng cùng cầm quân đi đánh Ngụy. Tôn Tẫn làm quân sư ngồi trong xe kín bàn mưu kế. Ðiền Kỵ theo kế Tôn Tẫn đánh cho Ngụy phải kiệt quệ. 13 năm sau, Ngụy và Triệu đánh Hàn. Hàn cáo cấp với Tề, Tề lại sai Ðiền Kỵ làm tướng, Tôn Tẫn làm quân sư đi cứu Hàn, tướng Ngụy là Bàng Quyên nghe vậy liền rời bỏ Hàn quay về. Tôn Tẫn nói với Ðiền Kỵ : "Quân Ngụy vốn hung tợn và khinh quân Tề, quân Tề mang tiếng khiếp nhược. Người thiện chiến thì nhân cái thế của mình mà lợi dụng. Ngài hãy sai quân Tề vào đất Ngụy làm 10 vạn cái bếp, hôm sau làm 5 vạn cái, lại ngày hôm sau nữa làm 3 vạn cái." Bàng Quyên đi được 3 ngày cả mừng nói : Ta vốn biết quân Tề nhát gan, mới vào đất ta 3 ngày mà quân sĩ bỏ trốn đã quá nữa.", bèn bỏ bộ binh mang Khinh binh, cùng lính tinh nhuệ một ngày đi gấp đôi đường đuổi theo. Tôn Tẫn trù tính họ đi đến đêm thì đến Mã Lăng. Ðường Mã Lăng hẹp, hai bên hiểm trở, có thể phục binh, bèn sai người chặt cây to, bôi trắng và viết : "Bàng Quyên tử vu thử thụ chi hạ" (Bàng Quyên chết ở dưới gốc cây này)., lại sai một vạn quân Tề giỏi bắn tên nấp ở bên đường, hẹn ban đêm thấy lửa đốt lên thì đều bắn ra. Bàng Quyên quả nhiên đêm ấy đến dưới gốc cây bị đẽo, thấy có chữ viết trên gỗ bôi trắng bèn cho đốt đuốc xem. Ðọc hàng chữ chưa xong thì 1 vạn nỏ của quân Tề đền bắn ra. Quân Ngụy trốn chạy tán loạn, Bàng Quyên tự biết mình trí cùng binh bại bèn tự đâm cổ chết. Quan Tề thừa thắng phá ta tất cả quân Ngụy. Từ đó Tôn Tẫn nổi danh trong thiên hạ, đời truyền binh pháp của ông ta.
Tôn Vũ :
Ðông Chu liệt quốc : Tôn Vũ, còn gọi là Tôn Tử, là một nhà binh pháp nổi tiếng của Trung Quốc cổ đại, người nươ`c Tề, sống vào cuối thời Xuân Thu (Khoảng thế kỷ thứ 5 trước công nguyên).
Tôn Vũ đem sách binh pháp yết kiến vua Ngô là Hạp Lư. Hạp Lư nói : "Ta đã đọc 13 thiên của ông rồi, nay ông thử áp dụng binh pháp điều khiển quân đội một cách tiểu quy mô có được không ?" Tôn Vũ đáp : "Ðược". Hạp Lư nói : "Ðem đàn bà ra thí nghiệm có được không ?" Tôn Vũ đáp : "Ðược". Vua bèn bằng lòng cho gái đẹp trong cung ra, tất cả 180 người, Tôn Vũ chia ra làm 2 đội, lấy hai người phi vua nuông chiều làm đội trưởng, sai tất cả đều cầm giáo. Tôn Vũ ra lệnh nói : Khi ta nói đàng trước thì các người nhìn vào quả tim, nói bên trái thì nhìn tay trái, nói bên phải thì nhìn tay phải, đàng sau thì nhìn đàng sau lưng." Sau khi đã đưa ra kỷ luật, Tôn Vũ bèn đặt Phủ Việt, ban lệnh 3 lần, nhắc nhở 5 lượt. Sau đó đánh trống ra lệnh nhìn về bên phải, bọn con gái cười rộ. Tôn Vũ nói : "Kỷ luật không rõ ràng, nhắc nhở hiệu lệnh không kỹ càng đó là tội của tướng." Lại ra lệnh và nhắc nhở 3 lần, 5 lượt rồi đánh trống ra lệnh nhìn về bên trái. Bọn con gái lại cười rộ, Vũ nói : " Kỷ luật không rõ ràng, nhắc nhở hiệu lệnh không kỹ càng đó là tội của tướng. Nay đã hiểu rõ kỷ luật rồi mà không theo luật là tội của đội trưởng." Tôn Vũ muốn chém đầu 2 người đội trưởng. Vua ngô ngồi trên đài xem thấy sắp chém 2 người ái cơ, hoảng hốt vội sai sứ truyền lệnh, nói : "Quả nhân đã biết cách dùng binh của tướng quân rồi, không có 2 ái cơ ấy thì quả nhân ăn không ngon, xin đừng chém." Tôn Vũ nói : Thần đã vâng mệnh lệnh bệ hạ làm tướng, tướng đã ở trong quân thì có khi không theo lệnh vua." Bèn sai chém 2 người đội trưởng để thị uy, đem người kế tiếp làm đội trưởng, lại đánh trống chỉ huy. Bọn con gái nhìn bên phải, bên trái, trước sau, quỳ đứng đều nghiêm chỉnh, đúng đắn, không ai dám ho he. Tôn Vũ sai sứ giả báo với vua : "Binh đã chỉnh tề, bệ hạ có thể dùng nó thế nào cũng được, có thể sai nó dù nhảy vào lửa, vào nước." Hạp Lư cho Tôn Vũ làm tướng. Phía Tây quân Ngô phá Sở, đi vào đất Sính, phía Bắc uy hiếp nước Tề, nước Tấn, nổi tiếng chư hầu.
Bộ Tôn Tử Binh pháp gồm 13 thiên : 1. thủy kế, 2. Tác chiến, 3. Mưu công, 4. Quân hình, 5. Binh thế, 6. Hư thực, 7. Quân tranh, 8. Cửu biến, 9. Hành quân, 10. Ðịa hình, 11. Tựu địa, . Hỏa công, 13. Dụng gián.
Tôn Tử Binh pháp là quyển sách gối đầu giường của các nhà quân sự á đông ngày xưa và hiện vẫn còn được nghiên cứu tại các học viện quân sự và còn được ứng dụng trong nhiều lãnh vực khác.
Thiên Nam Ngữ lục :
Kiêm hay thao lược cơ quyền.
Bội trăm Bạch Khởi, chấp ngàn Tôn Ngô.
Tống :
Tên triều đại do Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn sáng lập ở Trung Quốc (960 - 1279). Ðể phân biệt với nhà Tống do Lưu Du lập ra thời Nam Bắc triều, người ta gọi nhà Tống của họ Triệu là Triệu Tống và nhà Tống của họ Lưu là Lưu Tống.
Nhà Triệu Tống chia ra làm Bắc Tống (920 - 1127) đóng đô ở Biện Kinh (Khai Phong) và Nam Tống (1127 - 1279) đóng đô ở Lâm An (Hàng Châu).
Triều Tống gồm 12 đời, 16 vua, trãi 320 năm.
Tống Ngọc :
Người nước Sở thời chiến Quốc, cùng với trường Khanh (Tức Tư mã Tương Như đời Hán), cả hai đều đẹp trai và nổi tiếng về Từ phú.
Văn học cổ dùng từ Tống Ngọc, Trường Khanh để chỉ hạng văn nhân, tài tử.
Tú Thực : Tức Ðoàn Tú Thực, Xem Hốt họ Ðoàn.
Tuân Huống : Tức Tuân Tử.
Tuân Khanh : Tức Tuân Tử.
Tuân Sán :
Người đời Ngụy, tên tự là Tuân Huống, là nhà tư tưởng lớn cuối thời Chiến Quốc.
Tục Mệnh : Hiệu của Tiểu Lân.
Tung hoành :
Những kế hoạch trong binh pháp của các nước thời Chiến Quốc. Tung là kế liên lạc các nước theo chiều dọc Trung QUốc để chống nhà Tần. Hoành là kế các nước rời nhau quay đều thờ Tần theo chiều ngang.
Thế Hợp Tung do Tô Tần chủ xướng và thế Liên hoành do Trương Nghi chủ xướng.
Tương Hà : Sông Tương.
Sông Tương phát nguyên từ Quảng Tây, hợp lưu với sông Tiêu, sông Nguyên ở Vân Nam rồi cùng chảy vào hồ Ðộng Ðình. Vùng xung quanh các sông này phong cảnh rất đẹp.
Sông Tương phát nguyên ở Hồ Nam Trung Quốc, tương truyền 2 vợ vua Thuấn là Nga Hoàng và Nữ Anh theo không kịp vua Thuấn, chết và biến thành thần sông Tương.
Tùng Tuyết đạo nhân :
Tức Triệu Mạnh Phủ, người Tống, có tài viết chữ rất đẹp, có thiếp của ông truyền ở đời.
Hoa Tiên : Chữ đề thiếp Tuyết cầm theo phả đồng.
Tùng Tử : Tức Xích Tùng Tử, Xem Kiều Tùng.
Tuổi Hạc : Tuổi thọ, vì tương truyền Hạc sống lâu đến nghìn năm.
Sớ Kinh Thi của Lục ngô (Tam Quốc, Ngô) : "Hạc thọ thiên tuế" (Chim hạc sống lâu nghìn năm.)
Tuy Thủy : Sông Tuy Thủy, xem Sông Tuy giải Hán Cao.
Tuyên Nghĩa : Tức núi Thành thuộc tỉnh Nghệ An cũ, nay thuộc thành phố Vinh, Nghệ Tĩnh.
Tuyền đài : Tức âm phủ. Xem Cửu tuyền.
Tư Châu : Tên đất, nơi Lưu Côn, Tổ Ðịch làm quan chủ hạ.
Tư Mã Phượng Cầu :
Khúc đàn "Phượng Cầu Hoàng" do Tư Mã Tương Như đời Hán soạn.
Sử ký : Tư Mã Tương Như một hôm đến nhà Trác Vương Tôn dự tiệc, họ Trác có con gái là Văn Quân trẻ đẹp góa chồng. Giữa tiệc, khách yêu cầu Tương Như dạo một khúc đàn. Tương Như liền soạn ra hai khúc rồi mượn cây đàn ỷ cầm để dạo cốt tỏ tình với Văn Quân. Văn Quân cảm tiếng đàn mà bỏ nhà trốn theo Tương Như. Khúc đàn có câu : "Phượng hề, phượng hề quy cố hương, du ngao tứ hải cầu kỳ hoàng, hữu nhất diễm nữ tại thử đường, thất nhĩ nhân hà độc ngã trường, hà du giao tiếp vị uyên ương" (Chim Phượng, chim Phượng về làng cũ đi thôi, đi ngao du bốn bể tìm chim Hoàng, có một người con gái đẹp ở ngay tại nhà này, phòng gần nhưng người xa làm khô héo cả ruột gan ta, làm sao mà gặp gỡ nhau hẹn làm đôi chim uyên ương).
Tư Mã Quang : Tức ôn Công.
Tư Mã Tương Như : Người đời Hán, nổi tiếng thơ hay. Xem Tư Mã Phượng Cầu.
Tư Mã Thiên :
Thông Chí : Tư Mã Thiên người đời Hán, thời thơ ấu ở tỉnh Thiểm Tây đất long Môn, ông cùng cày ruộng, chăn nuôi với những người nông dân bình thường và học các sách vỡ cổ. Lên 10 tuổi đã thông thạo cổ văn. Năm 20 tuổi ông lên đường đi du lịch khắp nơi trong nước. ông từng giữ chức Lang Trung, sang sứ đất Ba Thục trở về làm Thái Lệnh Sử. Năm 99 trước Công nguyên, Vũ đế đánh Hung Nô, Lý Lăng cầm quyền vào đất Hung Nô bị bao vây chặn mất đường về, quân sĩ chết hầu hết, Lăng phải đầu hàng. Vũ đế nổi giận muốn giết cả nhà Lăng. Tư Mã Thiên mến phục Lăng là người quốc sĩ nên đã tâu rõ lòng trung của Lăng. Vũ đế càng giận, bắt ông hạ ngục và khép vào tội cắt mất sinh thực khí. Hình phạt nhục nhã này làm ông hiểu rõ mặt trái của xã hội phong kiến và khiến ông trở thành một sử giá vĩ đại.
"Sử ký" là công trình sử học lớn của Trung Quốc gồm 130 thiên, chia làm 5 phần : Bản kỷ, Biểu, Thứ, Thế gia, Liệt truyện.
Tư Mạo : Tôn Tư Mạo đời Ðường. Xem Thuốc điểm mắt rồng.
Tôn Tư Mạo người đất Hoa Nguyên, thông Bách gia chư tử, sành học thuyết Lão trang, ẩn ở núi Thái Bạch. Tùy Vân Ðế có chiếu mời ông ra làm Quốc Tử Bác sĩ. ông không nhận. Vào năm Hiển Khánh, vua lại xuống chiếu mời ông giữ chức Gián Nghị Ðại Phu, ông cũng cáo từ trở về núi. ông sành môn thuật số và làm thuốc. Có sách "Ngân hải tinh vi" và "Thiên kim yếu phương" truyền ở đời.
Tứ Khoa : 4 khoa là : Ðức hạnh, Ngôn ngữ, Chánh sự và Văn học.
Tứ tri :
4 người biết, ý nói làm việc gì dù ám muội đến mấy cũng có người biết, làm điều bất lương mà biết tự thẹn với lương tâm.
Hậu Hán Thư : Dương Chấn tự Bá Khôi học rộng, tinh thông kinh truyện. Khi ông làm thái thú đất Ðông Lai, nhân qua huyện Xương ốp, quan huyện này là Vương Mật đang đêm bọc 10 cân vàng mật dâng Dương Chấn. ông không nhận, Mật nó : "Xin quan lớn nhận cho, đang đêm không có ai hay biết đâu." Chấn nói : "Thiên tri, thần tri, ngô tri, tử tri, hà vị vô tri ?" (Có trời biết, thần biết, ta biết, ngươi biết, sao lại bảo không ai biết ?).
Thiên Nam ngữ lục :
Tôi lòng nào có tứ tri.
Sống vì nết dại, khổ vì nết ngay.
Tử Cái : Tên một trong 3 ngọn núi cao nhất trong rặng hoành sơn ở Trung Quốc.
Tử Cơ : Tên tự của Dương Chu.
Tử Củ :
Công tử Củ là con vua Hy Công nước Tề. Hy Công chết, anh công tử Củ là Chư Nhi lên kế ngôi tức Tề Vương Công, chính sự rối nát bị Công tôn Vô Tri giết cướp ngôi. Bấy giờ Công tử Củ chạy sang nước Lỗ, em là công tử Tiểu Bạch chạy sang nước Cử. Vô Tri về sau bị Ung Lẫm giết để mưu việc đón công tử Củ về nước Lỗ về nối ngôi, nhưng công tử Tiểu Bạch được Bảo Thúc Nha hết lòng giúp sức nên đã về nước Tề trước và được lập làm vua tức Tề Hoàn Công. Tề Hoàn Công sai người nói với vua Lỗ giết công tử Củ rồi lấy vợ công tử Củ làm vợ mình.
Ðông Chu Liệt quốc : Tề Hoàn Công sai Thấp Bằng vào cầu hôn với vua nhà Chu, đến năm sau vua nhà Chu sai Lỗ Trang Công làm chủ hôn, đem Vương Cỏ gã cho Tề Hoàn Công. Nhân có việc chủ hôn ấy, Tề và Lỗ lại giao hiếu với nhau.
Tử Dị :
Là tên con của Tử Sở, con thứ Thái tử An Quốc quân, sau làm con thừa tự của Hoa Dương phu nhân vốn là người nước Sở.
Xem Bất Vi gã vợ.
Tử Hạ :
Người nước Vệ thời Xuân Thu, họ Bốc tên Thương, là học trò giỏi về Văn học của Khổng Tử. ông chuyên về Kinh Thi. Những người học tập, nghiên cứu Kinh Thi các đời sau đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của ông. Sau khi Khổng Tử qua đời, ông mở trường dạy học ở Tây Hà. ngụy Văn Hầu tôn đãi ông vào bậc thầy.
Tử Kiến : Tên tự của Tào Thực. Xem Tài kiêm tám đấu.
Tử Kiều : Tức Vương Tử Kiều. Xem Kiều Tùng.
Tử Kính : Tức Vương Tử Kính. Xem Thanh Chiên.
Tử Khiên :
Mẫn Tử Khiên, tên chữ là Tôn, người thời Xuân Thu, học trò Khổng Tử. Mẹ mất sớm, cha ông lấy vợ kế sinh được 2 con. Mẹ kế đối xử với ông rất cay nghiệt nhưng ông vẫn giữ tròn bề hiếu thảo. Mùa rét, mẹ kế cho ông mặc không đủ ấm. Một hôm, ông đẩy xe cho cha, trời rất cóng, tay rời càng xe. Cha ông biết người mẹ kế đối xử không tốt với con mình, định đuổi mẹ kế đi. ông khóc và cố kêu van với cha xin đừng đuổi mẹ kế đi, vì có mẹ kế thì chỉ mình ông rét cóng thôi, nếu đuổi mẹ kế đi thì cả 3 anh em ông đều bị đói khổ cả. Cha nghe lời ông. Người mẹ kế biết chuyện, về sau đối xử với ông rất tốt.
Tử Lăng :
Tên tự của Nghiêm Quang đời Hán, là người rất tiết tháo, không tham chức vị, ở ẩn tại đất Phú Xuân.
Hậu Hán Thư : ông người đất Dư Ðiêu quận Cối Kê đời Ðông Hán, nổi danh từ nhỏ, cùng học và cùng chơi với Quang Vũ, khi Quang Vũ lên ngôi vua, Nghiêm Quang đổi tên họ giấu mình ở ẩn. Quang Vũ nhớ ông là người hiền mới cho người đi tìm khắp nơi, tả hình dáng và dung mạo của ông để tìm. Sau nhờ có người nước Tề dâng thư báo có người bận áo lông dê câu cá ở đoán chắc là Nghiêm Quang. Quang Vũ liền cho xe đến đón. ông 3 lần từ chối, lần thứ tư Quang Vũ lại cho sứ đón, ông mới chịu về kinh đô Lạc Dương yết kiến Quang Vũ. Quang Vũ được tin Nghiêm Quang ở quán xá bèn lên xe đến ngay gặp Nghiêm Quang và mời cùng vào cung để đàm luận tình bạn cũ. Hai người thân thiết nằm cùng giường nói chuyện. Quang Vũ cố mời Nghiêm Quang giữ chức Gián Nghị đại phu. Nghiêm Quang không chịu nhận lời bèn từ tạ trở về cày ruộng ở núi Phú Xuân (Nay thuộc Phú Dương, đất Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang). Người đời sau gọi nơi Nghiêm Lăng câu là "Nghiêm Lăng lại", vết tích này còn ở huyện Ðồng Lư bên bờ sông Chiết Giang, dưới chân núi Nghiêm Sơn, chỗ ông ngồi câu có từng lớp đá gọi là "Ðiếu đàn"(Hậu Hán Thư, quyển 103).
Tử Sở : Xem Tử Dị.
Tử Lộ : Tên tự của Trọng Do, học trò Khổng Tử. Xem Ðai Tử Lộ.
Tử Phòng : Hiệu của Trương Lương.
Tử Tiện : Tức Mật Tử Tiện. Xem Cầm Ðường.
Tử Thôi : Tức Giới Tử Thôi. Xem Hàn Thực.
Tử Trường :
Hiệu của Tư Mã Thiên đời Hán, sữ gia vĩ đại của Trung Quốc, tác giả bộ Sử ký và là người nổi tiếng đi nhiều, ông đã từng đến các nơi thắng cảnh vùng Giang, Hoài, Nguyên, Tương, Cối Kê, Vũ Huyệt...
Tử Uyên : Tên tự của Nhan Uyên., học trò Khổng Tử.
Tử Văn đốt đền :
Truyền kỳ mạn lục : Ngô Tử Văn, tên Soạn, người huyện Yên Dũng đất Lạng Giang vốn tính khẳng khái nóng nảy. Trong làng có một tòa đền thờ bộ tướng của Mộc Thạnh tử trận gần đấy, làm yêu quái trong dân gian. Tử Văn tức giận liền tắm gội chay sạch, khấn vái rồi đốt đền. Sau đó, chàng bị chúng kiện đến Diêm Phủ. Nhờ Diêm Vương tra xét kỹ lưỡng, mến phục chàng là người ngay thẳng nên cho được làm phán sự đền Tản Viên.
Từ Phi :
Người đất Trường Thành đời Ðường, tên Huệ, lên 8 tuổi đã giỏi việc văn thơ. Vua Thái Tông nghe tiếng triệu vào kinh cho giữ chức Tài Nhân, bà có làm trăm bài thơ Liên Châu.
Từ Thức :
Truyền kỳ Mạn Lục : Từ Thức người Hòa Châu, năm Quang Thái đời Trần được bổ làm tri huyện Tiên Du. Một hôm đi viếng chùa (Tháng 2 năm Bính Tý, niên hiệu Quang Thái thứ 9 - 1396, đời Trần) có một cô gái vô ý làm gãy cành Mẫu đơn mà bị bắt giữ. Từ Thức động lòng liền cởi tấm áo cừu gấm trắng đưa chuộc cho nàng.
Tính Từ Thức hay rượu, thích đàn, ham thơ mến cảnh, việc sổ sách bỏ bê nên thường bị quở trách. ông chán nản trả ấn tín bỏ quan mà về, từ ấy đi ngao du khắp nơi, một hôm trông ra cửa bể Thần Phù, chèo ra thì thấy một trái núi rất đẹp bèn lên bờ xem thử, bổng thấy vách đá nứt ra bèn đi vào thì gặp gnười con gái hôm nọ chính là nàng tiên Giáng Hương. Nàng nói rằng đây là núi Phù Lai, động tiên và cầm chàng ở lại. Hai người lấy nhau, thấm thoắt đã được một năm. Từ nhớ nhà nên xin về thăm. Ðến nơi thì ra đã trãi hơn 80 năm, cảnh cũ không còn, chàng bèn mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn đi vào núi hoành sơn rồi mất tích.
Tương Như : Tức Tư Mã Tương Như. Xem Tư Mã Phượng Cầu.
Tướng Hủ :
Người đời Hán, tự là Nguyên Khanh, tính ngay thẳng liêm khiết, khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, Tướng Hủ không chịu khuất phục, bỏ về nhà trồng hàng trúc và 3 dãy Cúc trước sân để tỏ chí mình.
Tỷ Dực : Chắp cánh. Xem Chắp cánh liền cành.
Cung oán ngâm khúc :
Tranh tỷ dực nhìn ra chim nọ.
Ðồ liên chi lần trỏ hoa kia.
Tì Bà đình :
Ðình Tì Bà, ngôi đình được xây dựng để kỷ niệm Bạch Cư Dị ở đầu bến Tầm Dương, bến sông phía Tây huyện Cửa Giang, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc, nơi Bạch Cư Dị gặp cô gái đánh đàn Tì bà và viết bài thơ "Tì bà Hành" nổi tiếng.
Thạch Kính Ðường : Tức Thạch Tấn.
Thạch Sùng : Con Thạch Sùng
Tương truyền, con Thạch Sùng vốn là lái buôn lớn đời Tấn, giàu có tột bậc. Sau vì thi giàu sang với Vương Khải, bị thua mất hết gia sản, tiếc quá mà chết, hóa thành con Thạch Sùng suốt đời chép miệng tiếc rẽ của cải đã mất.
Thạch Tấn :
Tức Thạch Kính Ðường lập nên nhà Tấn thời Ngũ đại, lên ngôi vua năm 936, xưng là Tấn Cao Tổ. ông đã cắt đất 16 châu làm lễ tạ ơn Khiết Ðan là ngươì đã lập ông ta làm vua nước Tấn.
Thạch Thất :
Chỉ rặng Tung Sơn, là một rặng núi nỗi tiếng Trung Quốc, rặng này có 36 ngọn nên còn gọi là "Tứ Cửu"
Thạch thất còn có nghĩa là nhà đá nằm trong núi.
Tấn Thư : Vương Chất làm nghề kiếm củi, vào rừng gặp tiên ở Thạch Thất.
Thái Bạch Kim Tinh :
Chỉ núi Hoa Sơn ở Trung Quốc. Theo thuyết thiên văn cũ của Trung Quốc thì ở Kim Tinh có vị thần là Thái Bạch làm chủ vùng phân dã Hoa Sơn.
Thái Công : Tức Khương Tử Nha.
Thái Chân : Tên tự của ôn Kiệu đời Tấn.
Viên Cơ : ôn Kiệu đời Tấn đi qua bến Ngưu Chữ, chổ đó nước sâu thăm thẳm. Người ta vẫn đồn là có nhiều quái vật. Kiệu bèn đốt một cái sừng Tê soi xuống nước thấy vô số những thủy tộc kỳ hình quái trạng hoặc đi xe hoặc đi ngựa mặc áo đỏ lố nhố hiện ra. Ðêm hôm ấy, Kiệu nằm chiêm bao thấy có người bảo : "Ta cùng ngươi tối sáng khác thường, sau lại soi nhau làm gì thế" xem ý có vẽ tức giận lắm.
Thái Châu : Hiệu của Dương Quý Phi, vợ vua Ðường Minh Hoàng
Thái Hòa :
Lam Thái Hòa, tương truyền là một dật sĩ cuối đời Ðường, thường mặc quần áo rách, một chân xỏ giầy một chân dẫm đất, đi lang thang ở đường ở chợ, một tay cầm một thanh gỗ dài 3 thước, uống rượu say nhừ rồi gõ thanh gỗ làm phách mà hát nghêu ngao.
Thái mẫu :
Tức Thái Châu, tên hiệu Dương Quý Phi, vợ vua Ðường Minh Hoàng. Vua Ðường Minh Hoàng ví sắc đẹp của nàng với hoa sen.
Thái tân chi ưu : Nỗi lo không nhặt đực củi.
Là lời tạ bệnh của kẻ sĩ để từ chối công việc vì không phải thời để thi thố tài năng (Thái tân : Hái nhặt củi).
Mạnh Tử : "Tích giả hữu vương mệnh, hữu thái tân chi ưu, bất năng tháo triều" (Hôm trước có mệnh vua vời, bị cảm bệnh không thể phụng mệnh vua vào triều được.)
Than phụng :
Luận Ngữ : Khổng Tử thấy đạo của mình chưa đem ra thi hành được mới than rằng : "Phụng điểu bất chí, hà bất xuất đồ, ngô dĩ hy phù" (Chim Phụng không đến, sông Hoàng Hà không thấy đồ thư xuất hiện, đời ta e rằng thế là hết rồi chăng !)
Phú Nguyễn Nghiễm : Vậy khiến, thương lân sùi sụt thán phụng nghêu ngao, thời chẳng gặp thánh nhân, đã vậy đạo không dùng thiên hạ làm sao. (Khổng Tử mộng, Chu công phủ).
Thanh Chiên : Thảm xanh, chỉ của báu gia truyền.
Sách Thế thuyết tân ngữ kể rằng : Một đêm, Vương Tử Kính đang nằm trong phòng thấy bọn trộm kéo đến khuân hết đồ đạc đi. Tử Kính bèn bảo chúng : "Các thứ khác thì có thể lấy nhưng hãy để lại tấm thảm xanh vì đó là vật kỹ niệm của nhà ta."
"Vĩnh vi thanh chiên" : Mãi mãi là của báu gia truyền.
Thanh nang : Túi xanh, chỉ sách nói về các phép chữa bệnh.
Hậu Hán thư : Hoa Ðà là thầy thuốc nổi tiếng thời Hậu Hán bị Tào Tháo hạ ngục. Lúc sắp chết nhân cảm cái ơn người cai ngục thường đem cho rượu và thức ăn nên Hoa Ðà đã biếu ông ta cái Thanh nang đựng các phép chữa bệnh chưa hề truyền cho ai. Thanh Nang này sau bị vợ người cai ngục đốt mất vì nghĩ rằng dầu cho ông ta học được thần thuật chăng nữa thì rốt cục cũng phải bỏ mạng trong ngục như Hoa Ðà, do đó các phép chữa bệnh nói trong Thanh Nang bị thất truyền.
Thanh Vân : Mây xanh, chỉ đường lập công danh.
Sử ký : Thầy Phạm Thư Tư Giã cúi đầu chịu tội chết và nói : "Giã bất ý năng tự chí ư thanh vân chi thương. Giả bất cảm phục độc thiên hạ chi thư, bất cảm phục dự thiên hạ chi sư." (Giả này không ngờ ngài có thể tự mình lập được công danh. Từ nay, giả tôi không dám đọc sách của thiên hạ, cũng lại không dám dự vào việc thiên hạ).
Thánh nữ (đền) :
Vua Trần Anh Tông nam chinh đóng quân ở đây, đêm mộng thấy một người con gái nói : "Thiếp là Triệu nữ nương tử bị sóng gió làm chết đuối, vâng lệnh thượng đế làm hải thần ở đây đã lâu, nay nghe tin bệ hạ nam chinh, xin nguyện giúp đỡ thành công" Hôm sau, nhà vua hỏi bô lão thì quả có chuyện như vậy. Sau đó quân nhà vua vượt bể, sóng gió yên lặng. Khi thắng lợi trở về, nhà vua bèn xuống chiếu lập đền thờ, sai quan tới tế lễ. Trong tự điển được phong làm Thượng đẳng thần.
Thàng Công : Tên tự của Ðoàn Tú Thực. Xem Hốt họ Ðoàn.
Thành hạ yêu minh :
Nói việc ăn thề xin hòa dưới chân thành vì địch đánh, sức quân trong thành không chống nỗi. Ðấy là nói lễ ước hẹn "Thúc giáp giải binh" ra hàng.
Tả truyện : "Sở phạt Giảo đại bại chí, vi thành hạ chí minh nhi hoàn." (Nước Sở đánh nước Giảo, đánh cho nưới Giảo bại to, bắt Giảo phải ăn thề ở chân thành rồi rút quân về.)
Kiều :
Tin lời thành hạ yêu minh.
Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng.
Thành Trai : Tên hiệu của Dương Vạn Lý, nhà thơ đời Tống.
Thái Sử Bá : Quan chép sử nước Tề thời Xuân Thu. Xem Giản nước Tề.
Thập dạng chi tiên :
Giấy mười thức, chỉ loại giấy hoa tiên được Tạ Công ở ích Châu (nay là Tứ Xuyên, Trung Quốc) sản xuất, còn gọilà "Thập dạng loan tiên".
Thơ ÐàoPhổ có câu : "Thập dạng loan tiên xuất ích Châu"
- Về trang đầu
- Về mục lục chọn vần
Thao lược : Chỉ sách binh pháp, gồm Lục thao và Tam lược
Lục Thao : Binh pháp của Khương Tử Nha.
Tam lược : Binh pháp gồm 3 quyển, tuơng truyền do Hoàng Thạch Công soạn để ban cho Trương Lương, thực tế là sách ngụy tạo của người đời sau.
Tam lược tức quyển "Thái công binh pháp" mà ông già ở cầu Hạ Bì đã giao cho Trương Lương (Sử ký, quyển 55 - Lưu Hầu thế gia).
Theo "Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu" (quyển 19, tứ bộ, binh gia loại) thì cái tên Tam lược được ghi lần đầu trong "Tùy thư kinh tịch chí" với lời chú : "Hạ Bì thần nhân sách". Tiếp theo, "Ðường Tống nghệ nhân chí" cũng ghi như vậy. Nhưng xét ra, văn nghĩa Tam lược không lấy gì làm cổ lắm nên nói Tam lược do Hoàng Thạch Công soạn và ông già đã trao lại cho Trương Lương cũng không có chứng cứ gì làm chắc. (Theo "Việt Nam Văn học sử" của Dương Quảng Hàm.)
Lục thao tương truyền do Thái công vọng ( Lã Vọng.) soạn, gồm có : Văn thao, Vũ thao, Long thao, Hổ thao, Báo thao, Khuyển thao. (Thao là binh pháp.)
Vân Tiên :
Văn đà khởi Phượng đằng giao.
Võ thêm ba lược sáu thao ai bì.
Tháp nhạn :
Tháp do pháp sư Huyền Trang đời Ðường dựng, các tân khoa Tấn sĩ thường đến đó ngoạn cảnh, khắc tên mình lên chân tháp.
Nam Bộ tân thư : Vi Triệu mới thi đỗ, đến vãn cảnh chùa Từ ân, nhân đề tên mình lên chân tháp. Các người lớp sau hâm mộ bắt chước làm theo mà có tục ấy.
Sơ kính tân trang : Bảng hùm tỏ phạm tháp nhàn diễu trương.
Xem Bắn nhạn ven mây.
Thằng xe cho nợ : Chỉ việc có vay có trả.
Chu Thù nhà nghèo, chiêm bao thấy thượng đế thương mình. Ngài hỏi vị thần Tư Mệnh : "Nó có giàu được không ?" Tư Mệnh nói : "Số nó nghèo lắm, nhưng hiện có số tiền của thằng Xe, có thể cho nó mượn được, rồi đến ký thằng Xe nó sinh ra thì lại phải trả." Sau Chu khá giàu. Ðúng đến kỳ hạn phải trả nợ, Chu xe tiền của chạy đi trốn. Buổi tối, Chu dừng xe nghĩ ở dọc đường gặp một người đàn bà chửa xin tạm nằm ở dưới xe. Ðêm ấy, người đàn bà đẻ đứa con trai, vì nghĩ nó đẻ dưới xe bèn đặt tên là thằng Xe. Từ đấy, Chu làm gì cũng thất bại, lại thành ra nghèo kiết.
Thẩm A Chi : Xem Lộng Ngọc.
Tử Thôi : Tức Giới Tử Thôi. Xem Hàn Thực.
Thần Phù :
Cửa bể Thần Phù thuộc huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa xưa. Cửa bể này xưa nổi tiếng phong cảnh hùng vĩ và sóng gió rất dữ. Sau bị phù sa lấp cạn từ đời Hậu Lê, nay là cánh đồng bát ngát thuộc vùng Phát Diệm (Hà Nam Ninh) và Nga Sơn (Thanh Hóa). Tương truyền ngoài khơi có hòn núi nơi Từ Thức gặp tiên.
Thần Phù còn là tên ngọn núi ở xã Nga Tiên, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa. Mạch núi chạy từ dãy Tam Ðiệp ra biển, phân chia đất ái Châu (Thanh Hóa) và các trấn vùng đồng bằng sông Hồng (Nam Châu).
Thần vũ bất sát : Uy vũ như thần mà không thích chém giết.
Kinh Dịch : "Cổ chi thông minh duệ khí thần vũ nhi bất sát giả phù" (Bậc thông minh sáng suốt thời xưa uy vũ như thần mà chẳng sát hại sinh linh).
Thận Huy :
Ðàm Thận Huy người làng ôn Mật, huyện Ðông Ngạc, Bắc Ninh, đỗ tiến sĩ đời Hồng Ðức, làm quan đến Thượng thư. Gặp khi Mạc cướp ngôi Lê, ông uống thuốc độc tự tận.
Thập toàn, bát vị : Tên 2 bài thuốc bổ căn bản chữa bệnh tạng phủ suy yếu.
Thất tịch :
Ðêm mồng 7 tháng 7 âm lịch, là lúc theo truyền thuyết Ngưu Lang và Chức Nữ mỗi năm gặp nhau một lần.
Chữ "Thất tịch" chỉ sự hòa hợp vợ chồng.
Thất Tịch còn là tên bài ca của Trương Lỗi đời Tống.
Thẻ rồng :
Xưa, người ta dùng cái chậu đồng chạm hình con rồng, dùi lỗ cho nước nhỏ xuống. Trong chậu có khắc từng khoảnh, mỗi khi nước đổ lưng đến khoảnh nào thì bỏ một cái thẻ để đếm khắc giờ trong ngày đêm.
Hoa Tiên :
Song hồ nấn ná thôn dâu.
Thẻ rồng xuân điểm ngày thâu chìm chìm.
Thế Dân :
Lý Thế Dân, tức Ðường Thái tông. Thế Dân đã giết em là Lý Nguyên Cát vì y có ý làm phản.
Thi Toàn :
Người đất Tiền Ðường đời Tống, năm Thiệu Hưng (1131 - 1162) giữ điện Ty Tiểu hiệu. Tháng giêng năm ấy, Tần Cối vào triều, Thi Toàn cắp đao đâm Cối, không trúng, bị đem hành hình giữa chợ.
Thi Tồn : Xem Ngày tháng trong bầu.
Thích Ca Mâu Ni :
Thủy tổ Phật Giáo, là con vua Suddtodama, sống ở Bắc ấn Ðộ vào thế kỷ thứ 6 trước công nguyên. Theo tục lệ, bấy giờ ngài kết hôn rất sớm, năm 16 tuổi với một công chúa xinh đẹp, đức hạnh tên Yasohhama và đã có con. Sống trong cung điện với đầy đủ những thứ xa hoa tráng lệ nhưng bổng va chạm với thực tại cuộc sống và khổ đau của loài người. Thái tử quyết định tìm đường ra khỏi nổi khổ bao la này. Năm 29 tuổi, ngài bỏ cung điện vào Tuyết Sơn tự tu hành trong 6 năm, rồui một buổi chiều ngồi dưới gốc cây (Từ đây, cây này được gọi là cây Bồ đề) trên bờ sông Neranjara, ngài đã đại giác ngộ và từ đấy được tôn xưng là đức Phật. Năm ấy ngài 38 tuổi. Sau khi chứng đạo, suốt 45 năm ngài ra sức giáo hóa tất cả mọi tầng lớp không phân biệt thành phần giai cấp. Năm 80 tuổi, ngài nhập tịch ở Kusinara.
Thích Cơ :
Vợ lẽ Hán Cao Tổ. Sau khi vua mất, Thích Cơ bị Lã hậu chặt cụt tay chân vất trong nhà xí mà gọi là con lợn để trả thù lúc trước được vua yêu.
Thiên Hán : Tức dãy Ngân hà. Xem Giang Hán.
Thiên Hậu : Tức Võ Hậu.
Thiên hình vạn trạng : Chỉ sự biến hóa của vạn vật.
Thơ "Nam Hải của Tào Cao có câu :
Ðôn cách lộ triêu hoành khánh lão.
Ban lăng ba da thổ tâm đan.
Vạn trạng thiên hình giai đắc ý.
Trường kình độc tự chuyển thân nan.
(Buổi sớm, cá dồn vọt lên giọt sương ngậm dưới chiếc khánh xưa, ban đêm con trai vượt lên ngọn sóng nhả tấm lòng đỏ, muôn hình vạn trạng ấy thực đắc ý, duy con cá kình to là chuyển mình khó nhọc.)
Thiên Khánh :
Lấy từ câu "Tích thiện chi gia, tích hữu dư khánh" (Nhà tích lũy được nhiều điều thiện ắt sẽ có phúc âm dồi dào).
Thiên ma bách chiết :
Nghìn lần mài trăm lần bẻ, ý nói trãi qua nhiều gian nan trắc trở, nhiều vùi dập đọa đày, thử thách.
Thiên Phái :
Tên một khúc sông Ðáy chảy qua huyện ý Yên nay thuộc tỉnh Hà Nam Ninh đổ ra cửa Liêu, còn có tên là sông Thanh Quyết hoặc sông Bô Cô.
Thiên Sơn :
Tên một dãy núi ở Thiên Sơn (Trung Quốc). Tiết Ðinh Quý đời Ðường đem quân đi đánh giặc Thiết Lặc, đến Thiên Sơn bắn 3 phát tên mà quân giặc phải tan.
Thiên Thai : Chỉ cảnh tiên.
U minh lục : Lưu Thần và Nguyễn Triệu cùng vào núi hái thuốc gặp một con suối lớn, hai bên bờ suối có hai người con gái tư chất tươi đẹp (hai nàng tiên) lưu hai người lại trong nữa năm. Cả hai đều nhớ quê hương bèn từ biệt các tiên nữa ra về. Về đến nơi, anh em bà con đã phiêu bạt đi đâu, nhà cửa cũng không còn. Hỏi thì không ai nhận ra họ vì họ đã có con cháu đến 7 đời.
Xem Ðộng khóa nguồn phong.
Thiên Vực (sông) : Khúc sông Mã thuộc huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa.
Thiện Văn : Tức Dư Thiện Văn
Khoảng niên hiệu Chí Chính nhà Nguyên có người học trò là Thiện Văn, giữa ban ngày thấy hai người lực sĩ đến nói là vâng mệnh Quảng Lợi Vương (Vua Thủy) sai đón Thiện Văn theo đi. Ðến bến sông xuống một chiếc thuyền thấy hai con rồng vàng cắp mà đem đi, rồi xuống đến Thủy phủ. Quảng Lợi Vương tiếp đón long trọng rồi nhờ soạn hộ một bài văn để đọc lúc làm lễ cất câu đầu của tòa đền Linh Ðức sắp dựng. Thiện Văn liền làm hộ một bài rất hay. Khi khánh thành, Thiện văn lại được dự một bữa yến lớn.
Thiếp Lan Ðình :
Tên gọi một bài tự tập "Lan Ðình" (Lan đình tập tự), chữ cực đẹp.
Tấn Thư : Vương Hy Chi người đời Tấn, chữ Thảo chữ Lệ quán cả cổ kim. Năm Vĩnh Hóa thứ 9 ngày mồng 3 tháng 3, họ Vương cùng các hiền nhân danh sĩ đương thời gồm 41 người hội ở Lan Ðình đất Cối Kê tỉnh Chiết Giang làm lễ Phất hệ (Lễ rửa tội trừ yêu tà) để cùng vui chơi. Người đến dự đủ cả hạng già trẻ. Nhân dịp này, Vương có làm bài tự tập Lan Ðình nổi tiếng. Họ Vương chính tay viết bài tự đó thành 28 hàng, 324 chữ với một thể đặc biệt đẹp vô song.
Thiếu Lăng : Hiệu của Ðỗ Phủ đời Ðường.
Thỏ lạnh :
Chỉ mặt trăng, tương truyền trên mặt trăng có con thỏ ngọc giã thuốc trường sinh.
Thọ Dương :
Công chúa Thọ Dương, con vua Vũ đế đời Tống (Lưu Tống).
Ngày mồng 7 tháng 1, công chúa nằm chơi ở điện Hàm Dương có hoa mai rơi vào trán thành hình 5 cánh, người đời nhân đó dùng hoa mai làm đồ trang sức.
Thọ thế bảo nguyên : Sách thuốc của Cung Ðình Hiền đời Minh soạn.
Thói nước Trịnh : Nói thói tà dâm của trai gái.
Nước Trịnh thời Xuân Thu có nhiều thói tà dâm phóng đãng, trai gái trèo tường đón ngõ hẹn nhau ngoài nội để đùa bỡn là chuyện phổ biến.
Kinh Thi còn chép một số ca dao nước Trịnh phản ánh tình trạng tà dâm phóng đãng đó.
Vân Tiên :
Chẳng phen thói nước Trịnh đâu.
Hẹn người tới giữa vườn dâu tự tình.
Thôi Giao : Xem Cửa Hầu, Chàng Tiêu.
Thôi Hộ : Xem Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Thôi Trữ : Ðại phu nước Tề thời Xuân Thu. Xem Giản nước Tề.
Thôi Trương : Tức Giới Tử Thôi. Xem Hàn Thực.
Thôi Trương :
Hội Chân ký : Vào năm Trinh Nguyên đời Ðường có Trương Sinh là người tuấn tú, hòa nhã đến chơi chùa Phổ Cứu gặp lúc Thôi phu nhân và con gái là Thôi Oanh Oanh cùng đến xin trọ ít ngày để đi Trường An, Thôi Oanh Oanh và Trương Sinh đôi trai tài gái sắc gặp nhau và đi lại ân ái với nhau ở mái tây chùa. ít lâu sau, Sinh đi Trường An dự thi rồi ở lại kinh và quyết tuyệt tình với Oanh Oanh, lấy cớ tài đức mình kém trong khi Oanh Oanh vẫn nhớ mong chàng, ý tình rất thắm thiết.
Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay.
Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi Trương.
Thối Chi : Tên tự của Hàn Dũ đời Ðường.
Thú Dương Sơn : Tên núi ở phía Nam huyện Vĩnh Tế, Sơn Tây, Trung Quốc.
Thủ Thiện phụ nhân :
Lấy điều lành mà khuyên người thì lòng nhân của người ngày càng tiến.
Luận ngữ : Tăng Tử viết : "Quân tử dĩ văn hội hữu, dĩ hữu phụ nhân." (Tăng Tử nói rằng : Người quân tử nhờ văn chương để họp bầu bạn, nhờ bầu bạn giúp để tiến đức nhân).
Thọ Sinh :
Tên núi ở phía ngoài Lương Sơn mấy dặm, trên núi có giếng đường kính chừng 5 thước ta, nước trong giếng 4 mùa không bao giờ cạn.
Thuần Vược :
Do chữ "Thuần lô" tức "Thuần canh lô khoái" : Canh rau thuần, gỏi cá vược (lô) chỉ phong vị nơi quê nhà.
Tấn Thư : Trương Hàn giỏi văn chương, tính phóng khoáng, không hay câu nệ nhỏ nhặt. ông vào đất Lạc, Tề Vương Quýựnh vời đến cho giữ chức thuộc quan. Bấy giờ Quýnh đương cầm quyền mà ông đã từng nói rằng : "Thiên hạ loạn lạc, mối họa chưa định được, phàm người có tên tuổi trong bốn bể cầu được lui về mà hưởng an nhàn là rất khó." Rồi nhân một buổi gió thu bắt đầu thổi mà nhớ canh rau Thuần, gỏi cá Vược (Thuần canh lô khoái) ở quê nhà. ông than rằng : "Nhân sinh quý đắc thích chí, hà năng kỳ quan sổ thiên lý dĩ, yêu danh tước hồ" (Ðời người ta quý nhất là được điều thích chí, sao có thể chịu trói buộc mình ở ngoài ngàn dặm mà cầu danh cầu tước !). Ðoạn ông sai người nhà thắng ngựa, chuẩn bị hành lý rồi bỏ quan trở về quê cũ.
Thúc Hoành :
Phù Thúc Hoành, giáo thụ Kinh Dịch ở Quốc Tử Giám, sau được thụ chức Hàn lâm học sĩ.
Thúc Kiệm : Lưu Thúc Kiệm, đỗ đầu khoa Thái học sinh cuối đời Trần.
Thúc quý : Nói đời suy loạn, sắp có diệt vong.
Phúc Chu Hy (Tống) : "Tai thúc quý nhi thả nhiên, Thần hưu minh chi cảnh vận" (ở đời suy loạn mà còn được thế, huống hồ ở thời buổi thịnh trị).
Lời sớ Tả Truyện : Chính sự suy vi gọi là Thúc Thế (đời suy loạn), đời Thúc Thế còn hơn đời Quý Thế là đời sắp diệt vong.
Thúc Tử :
Thượng hữu lục : Nhan Thúc Tử đời Chu, người nước Lỗ, một mình ở một cái nhà, đêm mưa bão, nhà láng giềng phía bắc bị đỗ, một cô gái chạy sang trú nhờ. Thúc Tử bắt cô gái cầm một cây nến ở tay, nến hết lại đưa cây khác để đốt tiếp. Ðến sáng mới thôi. ông giữ mình ngay sạch đến như thế.
Thuốc điểm mắt rồng :
Tôn Tư Mạo là ẩn sĩ đời Ðường, làu thông cả Bách Gia Chư Tử, kiêm sành cả nghề thầy thuốc. Ðường Thái Tông mời làm quan ở kinh sư, ông không nhận, lui về ở trong núi, hơn trăm tuổi mới mất. Tương truyền có con rồng mắc bệnh đến cầu chữa, có con cọp nuốt phải cây kim thoa cũng đến cầu rút hộ.
Thủy Hử : Chuyện anh hùng lãng bạc của Thi Nại Am.
Tống giang đời Tống cùng 108 người hảo hán vào núi Lãng Bạc tụ tập chống bọn tham quan ô lại, lập một giang san riêng. Sau bị thất bại và tan rã.
Thủy thiên nhất sắc : Trời nước một màu.
Chỉ cảnh trời nước bao la cùng một màu xanh như hòa nhập với nhau. Từ này thường dùng tả cảnh mùa thu.
Thơ Vương Bột đời Ðường : "Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc" (Nước mùa thu cùng bầu trời bao la hòa làm một màu.)
Thủy Tiên (đầm) :
Tên đầm ở trên núi Bàn Ðô thuộc địa phận xã Ðỗ Chữ ở cửa bể Hà Hoa.
Thụy Hiên : Hiệu của Lương Thế Vinh. Xem Trạng nguyên họ Lương.
Thứ Phi :
Là một dũng sĩ đất Kinh đời Chu, giỏi kiếm thuật. Một lần đi thuyền có 2 con Thuồng Luồng kèm hai bên thuyền, Phi rút kiếm nhảy xuống nước chém chết cả hai, cả thuyền được yêu ổn. Kinh Vương nghe tiếng bèn vời vào rồi phong cho chức quan Chấp Khuê.
Thử Thủ : Ðầu chuột.
Thành ngữ Hán có câu : "Thử thủ phấn sự" (Ðầu chuột hỏng việc), là lời châm biếm người không có tính quyết đoán.
Lời chú sách "Cố sự thành ngữ khảo" nói : Con người ta xử sự công việc mà cứ như đầu chuột vốn có tính hay nghi và không quyết, cứ thò ra thụt vào ở cửa hang thì tất phải hỏng công việc.
Thừa Tư :
Vũ Thừa Tư đời Ðường, có nàng hầu là Tố Nga vốn là cái tinh Hoa Nguyệt hóa hiện thành người.
Thương :
Triều đại do Thành Thang dựng nên. Nhà Hạ vô đạo, thiên hạ loạn lạc, Thành Thang thống lĩnh quân chư hầu tiến đánh vua Kiệt, diệt nhà Hạ dựng nên nhà Thương từ năm 1766 - 1123 trước công nguyên, kéo dài 645 năm, trãi 16 đời gồm 28 vua.
Nhà Hạ, Thương, Chu là 3 triều đại trong buổi đầu có vua hiền chính tốt.
Trả bích : Từ chữ "Khan Bích".
Trùng Nhĩ nước Tấn chạy nạn sang nước Tào, Hy Phu Cơ đưa biếu mâm cơm và ngọc bích. Trùng Nhĩ chỉ nhận mâm cơm còn trả lại ngọc bích. Từ đấy người ta dùng chữ "Khan Bích" (trả lại bích ngọc) để nói cái gì trả lại chủ cũ.
Trả châu :
Lâm Tích thuở nhỏ lên kinh, dọc đường trọ ở một cái quán tại Sái Châu, bắt được một túi ngọc châu đến mấy trăm hạt. Tích hỏi chủ quán xem ai trọ trước đó, chủ quán bảo đó là Khu Trọng Tân. Tích kể họ tên và chổ ở của mình, dặn hễ gặp Trọng Tân thì bảo cứ chổ đó mà tìm, mình muốn được gặp. Sau Trọng Tân quả đến tìm châu, chủ quán bảo tìm Tích. Tích thấy nói đúng bèn đưa trả lại tất cả. Tân muốn đưa biếu một ít nhưng Tích nhất định không nhận, bèn bỏ ra hơn trăm quan tiền làm chay ở chùa để cầu phúc cho Tích. Tích sau thi đỗ làm quan đến Thái Trung Ðại Phu, con là Ðức Tân làm đến Lại Bộ Thị Lang. Nhà ấy nối đời làm nên khoa hoạn mãi.
Trang Tử :
Sử ký : ông tên Chu, người huyện Mông nước Lương thời Chiến Quốc, là nhân vật trung tâm của phái Ðạo Gia, đã đưa đạo gốc thành một học phái ngang hàng với Nho Gia và Mặc Gia. Học thuyết của ông là phát triển học thuyết của Lão Tử. ông soạn sách hơn 10 vạn chữ, lời lẽ mông lung phóng túng, công kích đạo Nho, đạo Mặc. Sở Uy Vương nghe ông là người hiền bèn sai sứ mang hậu lễ đến đón ông, cho làm Tể Tướng. Trang Tử cười bảo sứ giả nước Sở : "Nghìn vàng là lợi to, khanh tướng là ngôi quý đấy, nhưng ông không thấy con bò lúc Tế giao hay sao ? nó được ăn mấy năm, được mặc đồ vóc thêu để đưa vào nhà Thái miếu. Lúc bấy giờ muốn làm con lợn nhỏ có được không ? ông đi ngay cho, đừng làm bẩn đến ta, ta chỉ chơi đùa trong nơi ngòi vắng để tự vui, không để cho kẻ có nước trói buộc, trọn đời không ra làm quan để thỏa chí ta."
Tràng Khanh :
Tên tự của Tư Mã Tương Như, nhờ gẩy khúc "Phượng cầu Hoàng" mà lấy được nàng Trác Văn Quân.. Xem Tư Mã Phượng cầu.
Trạng nguyên họ Lương :
Lương Thế Vinh, tự Cảnh Nghi, hiệu Thụy Hiên, người làng Cao Hương huyện Thiên Bảo, nay là huyện Vụ Bản tỉnh Hà Nam Ninh. ông đỗ Trạng nguyên khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận thứ 4 (1463) triều Lê Thánh Tông năm mới 23 tuổi, làm quan đến chức Hàn lâm viện Thị Giảng.
Tương truyền ông là người được Thượng đế sai xuống phò giúp vua. Do vậy, khi ông mất, người đời xem như là có lệnh của Thượng đế dời về.
Trạng nguyên làng Nghĩa Bang :
Tranh Vân Cẩu :
Tranh đám mây biến thành hình con chó, chỉ sự đổi thay khôn lường của cuộc đời.
Ðỗ Phủ :
Thiên hương phù vân như bạch y.
Tú tự hốt biến vi thương cẩu.
(Trên trời mây bồng bềnh như chiếc áo trắng, phút chốc lại biến thành con chó xanh.)
Cung oán ngâm khúc :
Lò cừ nung nấu sự đời.
Bức tranh Vân cẩu vẽ người tang thương.
Trao tơ : Chỉ việc đính hôn với nhau.
Khai nguyên thiên bảo di sự : Quách Nguyên Chấn đời Ðường phong tư xinh đẹp, có tài nghệ, 18 tuổi đỗ Tiến sĩ. Quan Tể tướng Trương Gia Trinh muốn kén làm rễ, bảo Nguyên Chấn : "Ta sẽ cho cả 5 con gái ta đứng sau màn, mỗi người cầm một sợi tơ khác nhau cho tròng ra phía trước, tiện tay anh rút được sợi tơ của người nào thì gã cho người ấy." Nguyên Chấn rút sợi tơ đỏ (hồng ti) lấy được người con gái thứ 3 rất đẹp.
Trầm ngư lạc nhạn :
ý nói nhan sắc tuyệt vời đến nổi cá bị quyến rũ không muốn bơi xa, nhạn cũng ngẫn ngơ, sà xuống chiêm ngưỡng.
Trang Tử : "Mao Tường, Lệ Cơ ai cũng cho là đẹp nhưng cá trông thấy thì lặn xuống sâu, chim trông thấy thì bay lên cao" (vẽ dững dưng). Ðời sau, các nhà văn thường dùng những từ cá lặn nhạn sa theo nghĩa ngược lại để nói về sắc đẹp quyến rũ của phụ nữ.
Cung oán :
Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn.
Lững lưng trời, nhạn ngẫn ngơ sa.
Trấn Quốc (chùa) :
Ngôi chùa nằm trên bờ Hồ Tây Hà Nội có lịch sử lâu đời. Theo tấm bia dựng năm Dương Hòa thứ 5 (1639) thì chùa vốn tên là An Quốc, đến năm Hoằng Ðịnh 16 (1615) mới đổi tên là Trấn Quốc.
Trần Bình :
Sử ký : Trần Bình người làng Hộ Dữ đời Hán, trước theo Hạng Vương, về sau vì việc đánh An Vương không xong, Bình sợ bị giết bèn một mình đến Tu Vũ đầu hàng Hán. Hán Vương cho Bình làm Ðô úy, được ngồi cùng xe với vua, cai quản các tướng, được phong đời đời làm Hộ Dữ Hầu. Sau khi Hán Cao Tổ mất, Lã Hậu muốn lập những người họ Lã làm vương, mưu việc cướp ngôi vua nhà Hán. Vương Lăng chống lại, Lã Hậu muốn bãi bỏ Vương Lăng, bèn cho Vương Lăng làm Thái phó mà cướp quyền Thừa tướng của Lăng. Lăng cáo bệnh xin về. Trần Bình giã vờ nghe theo Lã Hậu mà được làm Thừa tướng. Ðến khi Lã Hậu chết, Bình và Chu Bột cùng bàn mưu khôi phục vương quyền nhà Hán.
Trần Ðoàn : Xem ông Ðoàn trốn khách.
Trần trần : Trơ ra, lì ra, đây chỉ thái độ bền bỉ, nhẫn nại.
Hoa Tiên :
ấp cây một mực trần trần.
Trang Tích :
Thời Xuân Thu, Trang Tích là người nước Việt làm quan nước Sở. Hàng ngày sống ở triều đình Sở nhưng khi ốm đau ông rên bằng tiếng Việt. Người ta thường dẫn tích này để nói con người không quên quê hương tổ quốc.
Trên bộc trong dâu : Do chữ "Bộc thương tang gian" để chỉ thói tà dâm của trai gái.
Lễ ký : Tang gian bộc thượng chi âm, vong quốc chi âm giã" (Trong ruộng dâu, trên bãi sông bộc là tiếng nhạc mất nước).
Hán thư : Ðất nước Trịnh, Vệ có bãi dâu trên sông Bộc, trai gái tụ tập đàn hát gợi chuyện dâm ô.
Kiều :
Ra tuồng trên bộc trong dâu
Thì con người ấy ai cầu làm chi.
Tri âm, tri kỹ : Xem Nước non.
Tri Ngọc : Từ Tri Ngọc. Xem Trướng Hùm.
Trí Dược : Nhà sư đời Lương. Xem Khe Tào múc nước.
Trì Cung : Uất Trì Cung đời Ðường. Xem Kính Ðức.
Triệu Tử phá vòng Ðương Dương :
Thông Chí : Triệu Vân tự Tử Long người đất Thường Sơn đời Thục Hán là một dũng tướng theo giúp Lưu Bị lo việc trung hưng nhà Hán. Lưu Bị khi ở Tân Dã bị Tào Tháo đánh bại bỏ chạy, quân Tào đuổi theo đến Ðương Dương (Nay thuộc Hồ Bắc). thì Lưu Bị phải bỏ cả vợ con mà chạy về phía nam. Tướng tá lạc nhau, Triệu Vân một mình bảo vệ vợ con Lưu Bị đánh phá vòng vây trùng điệp của quân Tào, vượt cầu Trường Bản tìm gặp Lưu Bị, bảo toàn được A Ðẩu. Triệu Vân giúp Lưu Bị lấy thành đô, bình định ích Châu, giữ chức Chinh Ðông tướng quân, thường đánh nhau với Tào Tháo nhiều lần, bị quân Tào vây, Triệu Vân đều dùng kế phá được quân Tào. (Tam Quốc chí, Thục Liệt truyện).
Triệu Tiết :
Phó tướng nhà Tống, cùng với chủ tướng là Quách Quỳ đem quân xâm lược nước ta, bị Lý Thường Kiệt đánh bại (1076 - 1077).
Thiệu Thắng : Xem Bình Nguyên Quân.
Triệu Thổ : Khanh tướng đời Tống.
Tử Long : Tên tự của Triệu Vân. Xem Hàn Thực.
Triệu Vân : Tức Triệu tử Long. Xem Hàn Thực.
Triệu Việt :
Triệu Việt vương, vốn tên là Triệu Quang Phục. Thời Lý Nam Ðế, ông là tướng cầm quân đánh giặc Lương, sau Lý Nam Ðế trao cả binh quyền cho ông. Tương truyền có lần ông bị bao vây ở đầm Nhất Dạ, được Chữ Ðồng Tử cưỡi rồng đến trao cho móng rồng, làm vũ khí giết giặc, từ đó mà đánh đuổi được giặc ngoại xâm, thu phục lại đất nước, tự xưng là Triệu Việt Vương.
Trong tuyết đưa than :
Do chữ "Tuyết trung tống thán", chỉ việc cứu giúp người lúc khẩn cấp.
Tống sử : Năm Thuần Hóa thứ 4 (993), đời vua Tống Thái Tông có mưa tuyết, trời rét lắm. Vua sai quan Trung sứ đưa gạo ăn và than đốt cho những người già và người nghèo khổ.
Thơ Phan Thành Ðại (Tống) : "Bất thị tuyết trung tu tống thán" (Không phải chuyện trong tuyết đưa than).
Vân Tiên :
ít người trong tuyết đưa than
Khó ngồi giữa chợ ai màng đoái thương.
Trọng Do : Tên của Tử Lộ, học trò Khổng Tử.
Trọng Thư :
Ðổng Trọng Thư người đời Hán, tính rất ham học, thường đốt đèn thâu đêm đọc sách.
Hán Thư : ông người đất Quảng Xuyên, chuyên nghiên cứu kinh Xuân Thu từ thuở còn trẻ, buông màn đọc sách dạy học trò, 3 năm liền không dòm ngó gì đến vườn tược. Học trò đến thụ nghiệp người trước truyền cho người sau, nhiều người không biết mặt thầy. ông đi đứng, cử chỉ đều có khuôn phép, kẻ sĩ đương thời đều tôn ông làm bậc thầy.
Tru di tam tộc :
Có nhiều cách giải thích từ này :
Có người giải thích : "Tộc" là "họ", "Tru di tam tộc" là giết ba họ của một người (Họ hàng của cha, họ hàng của mẹ, họ hàng của vợ) (Sổ tay thuật ngữ lịch sử phổ thông, NXB Giáo dục - Hà Nội, 1993, tr.104, Phan Ngọc Liên chủ biên).
Có người cho "Tộc" là "đời". "Tru di tam tộc" là bị giết 3 đời : Bản thân và anh em ruột, đời con trai và đời cháu trai trực hệ. (Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Trãi, NXB Văn Hóa, Hà Nội, 1980, tr. 336).
Cũng có người hiểu "Tộc" là "đời" nhưng cách hiểu lại khác : 1. Cha mẹ, anh em, vợ con. 2. Cha mẹ, các con và các cháu. (Nguyễn Lương Bích, Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1975, tr. 591).
Trúc Bạch :
Tre lụa, chỉ sử sách vì ngày xưa người ta thường viết trên thẻ lụa hoặc tre.
Trúc lâm thất hiền :
Bảy người trong rừng trúc là : Kê Khang, Nguyễn Tịch, Nguyễn Hàm, Sơn Ðào, Hướng Tú, Vương Nhung, Lưu Linh, họ đều là những người Tấn, tính tình phóng đạt, thường hợp nhau vui chơi ở rừng trúc, uống rượu đàm luận chuyện cổ kim.
Xem Kê Khang, Lưu Linh.
Trung Ngạn :
Nguyễn Trung Ngạn, người làng Thổ Hoàng huyện Thiên Thi (Nay là ân Thi), đỗ Tiến sĩ đời Trần.
Trùng cửu : Ngày mồng 9 tháng 9. Xem Trùng dương.
Trùng Dương : Ngày 9 tháng 9 âm lịch được gọi là ngày trùng cửu.
Tục tề hài ký : Hoàng Cảnh người đất Nhữ Nam theo học với Phí Trường Phòng một hôm Phòng bảo Cảnh rằng : "Ngày mồng 9 tháng 9 vùng Nhữ Nam sẽ có tai biến lớn nguy cấp lắm, anh về bảo người nhà mang một cái túi đựng hoa Phù du, buộc vào cánh tay, lên núi uống rượu sẽ tránh được tai họa." Cảnh làm theo như lời thầy. Tiết Trùng cửu cả nhà lên núi, chiều tối trở về thấy gà, chó, trâu, dê trong một lúc đều chết sạch.
Tục lên núi uống rượu, đeo hoa phù du vào tiết Trùng Cửu có từ đấy.
Trụy Lư : Ngã lừa.
Trần Ðoàn nghe tin Triệu Khuông Dận làm vua, cười ngất, ngã từ trên lưng lừa xuống, nói : "Thiên hạ từ nay yên rồi"
Truyền Ðăng (núi) : Ngọn núi gần sông Bạch Ðằng, Quảng Ninh ngày nay.
Theo "Ðại Nam nhất thống chí", vua Trần Nhân Tông có bài thơ khắc ở đây, nay vẫn còn nên núi này còn có tên là "Núi thơ đề".
Trương Giốc : Xem Hoàng Cân.
Trương Hàn : Xem Thuần Vược.
Trương Hoa :
Người đất Phương Thành đời nhà Tấn, học nhiều xem rộng, cái gì cũng biết, có làm ra sách "Bác vật chí". Người đời bấy giờ ví Hoa như Tử Sản nước Trịnh đời xưa.
Trương Lương : Xem Cắp dùi Bác Lãng.
Trương Phi :
Danh tướng nhà Thục Hán thời Tam Quốc, người đất Trác Quân tự ích Ðức, cùng Quan Vũ, Lưu Bị kết nghĩa anh em. Khi Lưu Bị bị Tào Tháo đánh bại ở Ðương Dương, chạy đến cầu Trường Bản, quân sĩ qua cầu rồi Trương Phi liền dùng 20 kỵ binh đứng chặn cầu, quân Tháo không dám tới gần. Các tướng Tháo gọi Trương Phi là "Vạn nhân địch" (Tướng địch nổi vạn người).
Trương Tuần :
Người đất Nam Dương đời Ðường, thông hiểu kinh sách, giỏi binh pháp, đỗ tiến sĩ, làm quan lệnh đất Thanh Hà rồi Chân Nguyên. Giữa năm Thiên Bảo, An Lộc Sơn làm loạn, tướng của An Lộc Sơn là Doãn Tử Cơ tập hợp đầu đảng trên 10 vạn người bao vây đánh Trương Tuần ở Tuy Dương, ông cùng quân lính cố thủ, một ngày đánh ngót 20 trận và nhiều lần đánh bại quân Tử Cơ. Ðược vài tháng lương thực cạn, không có quân cứu viện, Tuần phải giết người thiếp yêu cho quân lính ăn. Ðến khi Tử Cơ đốc quân đánh thành thì quân của ông ốm kiệt sức không chiến đấu được, thành bị vây hãm. Khi bị bắt, ông mắng vào mặt Tử Cơ rằng : "Ta muốn nuốt tươi bọn nghịch tặc chúng mày, chỉ hiềm sức đã kiệt." Tử Cơ nổi giận lấy dao khoét lấy gần hết răng mồm của ông. Tuần còn chửi vào mặt chúng cho đến khi bị giết chết.
- Về mục lục T
Trướng hùm :
Do chữ "Hổ trướng" (Màn da hổ) chỉ nơi làm việc của tướng soái.
Nam Ðường Thư : Từ Tri Ngọc khi trấn đất Nhuận Châu thường lên chơi núi Mạt Sơn, dọn đất thành bãi bằng, kết da hổ làm màn che rồi cùng các tướng liêu thuộc họp ở dưới, gọi là "Hổ trướng".
Thơ Vương Kiên : "Hổ trướng trường khai tự giáo binh" (Màn hùm mở mãi để dạy quân lính).
Trướng huỳnh : Màn có ánh sáng đom đóm, chỉ phòng sách.
Tấn Thư : Xa Dận thuở nhỏ rất chăm học, nhà nghèo thường không có dầu thắp, mùa hè phải bắt đom đóm cho vào một cái túi đẩ lấy ánh sáng đọc sách.
Trường Cát :
Tên tự của Lý Hạ, làm văn rất lanh, đặt bút là thành. Một hôm thấy một người cầm cái thẻ chữ viết theo lối chữ triện cổ đến bảo Thượng đế mới làm xong cái lầu Bạch ngọc vời thầy lên làm cho bài ký. Không bao lâu thì Hạ chết. Từ đấy, khi nói về văn nhân mất sớm người ta thường dùng chữ "Ngọc Lâu phó triệu".
Trường Dương : Tên cung điện đời Tần.
Ðời Hán, vua Thành Ðế đã trưng bày ở cung này những dã thú săn bắt được để thị uy với Hung nô.
Trường Lang (Cảng) : Tên cảng thuộc tỉnh Hà Tĩnh xưa.
Trường Khanh :
Tên tự của Tư Mã Tương Như, nhờ gẩy khúc "Phượng cầu Hoàng" mà lấy được nàng Trác Văn Quân.. Xem Tư Mã Phượng cầu.
Trường Sinh : Tên tự của Quan Vân Trường.
Thiên hậu :
Theo "Thanh nhất thống chí" : Thiên hậu còn là tên một bị thần biển, bà là con gái đất Phủ Ðiền đời Tống. Lúc sinh bà có hào quang và hương thơm xông ngào ngạt. Khi đã lớn, bà thường ngồi chiếu đi lại trên đại dương, cưỡi mây chu du trên các đảo. Sau khi hóa, bà hay bận áo đỏ bay lượng trên mặt biển. Ðời Khang Hy nhà Thanh, bà được phong làm Thiên Phi rồi gia phong Thiên hậu.
Tục Thông Chí : Võ Hậu người đất Tinh Châu, thời Ðường Thái Tông được vời vào cung giữ chức Tài nhân (nữ quan). Thái Tông mất, bà cắt tóc đi tu. đến đời Cao Tông bà lại để tóc vào cung rồi được lập làm Hoàng hậu. Cao Tông mất, bà lên cầm quyền, lâm triều xuống chế, phế con là Trung Tông, tự lập làm vua, đổi quốc hiệu là Chu. Ðến năm đầu năm Thượng Nguyên được tiến hiệu Thiên Hậu.